Ngay từ khi ra đời, ngọn cờ độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam giương cao khi khẳng định trong Chánh cương vắn tắt "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"[2], để "Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập", "Dân chúng được tự do tổ chức", "Nam nữ bình quyền"… Trong suốt những năm sau đó, thông qua các cuộc tổng diễn tập (1930-1931), (1936-1939), Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân phát huy sức mạnh của lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết để từng bước đấu tranh cho độc lập, tự do.
Độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho tất cả mọi người và con người được giải phóng hoàn toàn để vươn tới cái tất yếu của tự do chính là đích đến của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cho nên, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”[1]. Vì thế, cũng chính Người đã bằng những việc làm cụ thể sau đó để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, vào trong phong trào công nhân và phong trào đấu tranh yêu nước; đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán; thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; cổ vũ, động viên và tập hợp quần chúng nhân dân trong các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất, trong các đoàn thể chính trị, các tổ chức hội phù hợp với yêu cầu từng giai đoạn cách mạng để nhân nguồn sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, tạo dựng và tích bồi nguồn sức mạnh của lực lượng cách mạng nhằm "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Làm Việc Tự Do Ở Đức Và 5 Điều Cần Biết - CMMB Việt Nam
Thắng lợi của cuộc cách mạng vĩ đại đó và Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước quốc dân và thế giới. Vì thế, đó không chỉ là hiện thân khát vọng của một dân tộc muốn được độc lập, con người muốn được sống trong tự do, được thụ hưởng những quyền con người cao cả nhất mà còn khẳng định quyết tâm, thành quả sự phấn đấu, hy sinh của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước. 2. Kiên định vì một nước Việt Nam "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" Độc lập - Tự do - Hạnh phúc chính những quyền làm người cao cả nhất theo Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước quốc tế về quyền con người, song những quyền đó chỉ được thực thi trong một quốc gia độc lập. Vì những giá trị cao quý đó, suốt chiều dài lịch sử, nhân loại tiến bộ, trong đó có nhân dân Việt Nam đã không quản ngại hy sinh, gian khổ đấu tranh để giành lấy/giành lại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc": Từ khát vọng đến hiện thực18/02/2021 | 36406 Trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam yêu nước, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc không chỉ là khát vọng lưu truyền mà còn là một hành trình đấu tranh kiên cường, luôn được tiếp sức, để mỗi người dân và con cháu muôn đời mai sau được thụ hưởng những quyền cao cả đó và thấu hiểu sâu sắc hơn giá trị cao quý của những mỹ từ đó.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố nước Việt Nam đã được độc lập, tự do sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp thống trị; nhân dân Việt Nam đã trở thành chủ nhân của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chứ không còn là thần dân, là nô lệ ở xứ Đông Dương thuộc địa… Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc đổi đời lịch sử, đã biến xứ An Nam thuộc địa bị xóa tên trên bản đồ thế giới trở thành một quốc gia độc lập, tự do; nhân dân Việt Nam đã giành lại được quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc và tự quyền tự quyết định sự tồn tại và phát triển của dân tộc mình.
Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước; đã tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với khát vọng: “Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, hòa bình thật sự, hòa bình trong độc lập tự do” và niềm tin chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do"[7]... Trong 30 năm trường chinh kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đầy gian khổ và hy sinh, thắng lợi của trận Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và thắng lợi của cuộc Tổng tiến công Mùa xuân 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Miền Nam đã được giải phóng, hai miền Nam Bắc đã “sum họp một nhà”, cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những nỗ lực của nhân dân Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc trải dài mấy thập niên cũng chính là để bảo đảm cho mọi người dân Việt Nam được thụ hưởng đầy đủ nhất quyền con người; trong đó, có quyền được sống trong hòa bình, độc lập, tự do và quyền tự quyết của dân tộc - được quyết định vận mệnh, con đường phát triển của mình.
Chương III - Thời kỳ đấu tranh chống phản động thuộc địa